Chúng tôi khởi hành từ Cần Thơ, trung tâm nhộn nhịp của đồng bằng sông Cửu Extended của Việt Nam, trước khi mặt trời mọc, đi về phía nam đến một trang trại nuôi trồng thủy sản ở tỉnh ven biển Cà Mau. Tôi được biết, trang trại này cho thấy nông dân ở vùng đồng bằng đang bảo tồn nguồn nước ngọt khan hiếm như thế nào trong mùa khô nóng homosexual gắt.
Một vài giờ lái xe sẽ đưa chúng tôi qua nơi được mệnh danh là “vựa lúa” và trung tâm nuôi trồng thủy sản của đất nước. Điều gây ấn tượng nhất đối với du khách là gần như mỗi tấc đất ở đây đều được canh tác hoặc xây dựng. Những ngôi nhà gần trang trại nuôi tôm và công nhân chất thân cây tràm lên xe tải. Những con đường hẹp tune tune với những con kênh chằng chịt được xây dựng để tưới tiêu và giao thông.
Nhưng mọi thứ còn lâu mới ổn ở nơi thoạt nhìn trông giống như một thiên đường nông nghiệp. Hầu hết các tuyến đường thủy đều khô cạn, đáy bùn lộ ra và nứt nẻ. Điều này không có gì bất thường trong mùa khô, nhưng những vết nứt đó ngày càng rõ ràng hơn sau mỗi năm trôi qua, tượng trưng cho những vết nứt ngày càng gây căng thẳng cho khu vực này, nơi sinh sống của 20 triệu người.
Việc khai thác cát trên sông và sự tắc nghẽn trầm tích thiết yếu của các đập ở thượng nguồn, chủ yếu ở Trung Quốc và Lào, đã làm cạn kiệt các khối xây dựng của đồng bằng, dẫn đến sụt lún nhanh chóng. Với việc đất bị lún, hàng nghìn con đường và tòa nhà bị vênh và sụp đổ. Và khi biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, mực nước biển dâng và dòng nước ngọt giảm sẽ đẩy nước mặn xâm nhập sâu hơn vào đất liền, gây ra rủi ro ngày càng tăng đối với nền nông nghiệp phụ thuộc vào nước ngọt như trồng lúa.
Làm thế nào để bạn thực hiện các giải pháp dựa vào thiên nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Extended, nơi 2% diện tích đất vẫn còn nguyên vẹn?
Sự cấp thiết phải cứu vùng đồng bằng sông Cửu Extended đã thu hút sự tham gia của các cơ quan quốc tế, ngân hàng phát triển, chính phủ Việt Nam, các tổ chức địa phương, học giả và nông dân. Đồng bằng hiện thu hút nhiều nguồn tài trợ cho các sáng kiến môi trường hơn bất kỳ khu vực nào khác ở Đông Nam Á. Điều quan trọng là có sự đồng thuận rộng rãi về những gì cần phải làm: tận dụng cái gọi là giải pháp dựa trên thiên nhiên – NBS theo cách nói bảo tồn – sử dụng các quy trình tự nhiên để tăng cường sức khỏe hệ sinh thái.
Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia tài nguyên thiên nhiên và nhà tư vấn tự do tại Cần Thơ, cho biết: “Chúng ta phải ngừng đấu tranh với thiên nhiên.
Các giải pháp dựa vào thiên nhiên thường được mô tả là các biện pháp bảo vệ, khôi phục hoặc quản lý hệ sinh thái tự nhiên. Ví dụ về các sáng kiến điển hình của NBS là các dự án trồng rừng nhằm khôi phục cảnh quan bị suy thoái hoặc thành lập các khu bảo tồn để bảo tồn điều kiện tự nhiên của chúng.
Nhưng làm thế nào để bạn thực hiện các giải pháp dựa vào thiên nhiên ở một khu vực như Đồng bằng sông Cửu Extended, nơi chỉ có 2% đất đai còn nguyên vẹn; nơi những con đê khổng lồ đã được xây dựng để định tuyến lại dòng nước lũ tự nhiên; và toàn bộ hệ sinh thái đã bị thay đổi hoàn toàn để sử dụng trong nông nghiệp ở đâu?
Môi trường Yale 360
Bắt nguồn từ vùng cao nguyên Tây Tạng, sông Mê Kông chảy qua sáu quốc gia trước khi chia thành hai con sông bên dưới Phnom Penh, thủ đô Campuchia. Cả hai nhánh này đều tiến vào Việt Nam trước khi tỏa ra vùng đồng bằng và Biển Đông. Các nhà địa lý thuộc địa vào những năm 1800 đã mô tả vùng đồng bằng này là một nơi khắc nghiệt và có nhiều bệnh sốt rét.
Vào những năm 1930, người Pháp bắt đầu xây dựng đê điều và đất lấn biển để dẫn nước ngọt vào những vùng có thể trồng lúa, ngay cả trong mùa khô. Mặc dù cây lúa có thể chịu được tình trạng khan hiếm nước trong thời gian ngắn nhưng nhìn chung cây lúa cần nước đọng trong một phần đáng kể vòng đời của cây, đặc biệt là trong các giai đoạn sinh trưởng quan trọng.
Tuy nhiên, phải đến những năm 1980 và 1990, Việt Nam, với mong muốn phát triển kinh tế thông qua sản xuất lúa gạo, mới phát triển mạng lưới kênh tưới tiêu rộng lớn. Để hỗ trợ tăng trưởng ba vụ lúa mỗi năm, các hệ thống đê bao lớn đã được thiết lập để vừa chứa nước ngọt vừa bảo vệ các khu vực canh tác khỏi lũ lụt.
Chính sách “ưu tiên gạo” này đã giúp giải cứu quốc gia bị chiến tranh tàn phá khỏi nạn đói, biến quốc gia này thành một nước xuất khẩu gạo lớn. Nhưng việc tái cơ cấu vùng đồng bằng cũng dẫn tới những thay đổi mạnh mẽ về thủy văn. Trong khi những con đê cao ở vùng thượng nguồn đồng bằng bảo vệ cây trồng, chúng lại làm tăng mực nước ở hạ lưu trong thời kỳ lũ cao điểm, lên đến đỉnh điểm vào năm 2000, một trận lũ lụt thảm khốc khiến hơn 450 người trên khắp vùng đồng bằng thiệt mạng.
Các vấn đề cũng ngày càng phức tạp ở thượng nguồn, nơi các đập thủy điện được xây dựng trên dòng chính của sông Mê Kông đã chặn dòng trầm tích mà nếu không sẽ chảy xuống hạ lưu để cung cấp lương thực cho các trang trại dọc đường đi và giúp tái tạo và xây dựng lại vùng đồng bằng.
Chính phủ Việt Nam đã hiểu rằng các chính sách tăng cường trồng lúa đang gây tổn hại cho môi trường và hạn chế các cơ hội kinh tế. Nó bắt đầu ủng hộ chính sách đa dạng hóa nông nghiệp nhằm chuyển đổi sản xuất từ độc canh lúa sang phương pháp canh tác đa dạng hơn bao gồm nuôi trồng thủy sản, trái cây và làm vườn. Năm 2017, các nhà lập pháp đã thông qua một đạo luật, được gọi là Nghị quyết 120, phản ánh cam kết của quốc gia trong việc quản lý và bảo tồn bền vững tài nguyên thiên nhiên.
Nhiều dự án quốc tế khuyến khích khôi phục các hoạt động nông nghiệp tận dụng lũ lụt tự nhiên.
Ông Văn Phạm Đăng Trí, Giám đốc Viện Nghiên cứu Biến đổi Khí hậu tại Đại học Cần Thơ, cho biết: “Chính phủ Việt Nam nhận thấy tầm quan trọng của việc hòa hợp với thiên nhiên.
Trang trại chúng tôi đang đến thăm, nằm ở huyện Phú Tân gần bờ biển, thuộc sở hữu của Tiêu Hoàng Phố, người lớn lên ở đây và làm việc cho một cơ quan khoa học và công nghệ của nhà nước. Giống như tất cả nông dân địa phương, ông Phố nuôi tôm trong các ao nối với kênh nước mặn. Nhưng Phố cũng đã xây dựng một ao nước ngọt được cách ly khỏi môi trường mặn xung quanh. Anh thu thập nước ngọt trong mùa mưa và sử dụng nó vào mùa khô để nuôi cá nước ngọt. Xung quanh ao, nhiều loại cây ăn trái – dừa, mít, chuối, xoài và sầu riêng – phát triển mạnh.
Vừa cầm mấy quả mận vừa bước xuống thang, Phở giải thích: “Đây là mô hình canh tác đa giá trị, có thể nhân rộng ở cấp hộ gia đình mà không cần cơ sở hạ tầng đắt đỏ”. Anh ấy nói rằng anh ấy sẽ sớm bắt đầu trồng lục bình, loại cây có thể được sử dụng cho mọi thứ, từ thức ăn chăn nuôi đến hàng thủ công.
Nhiều dự án quốc tế khuyến khích khôi phục các phương thức canh tác nông nghiệp tận dụng lũ lụt tự nhiên, như trồng sen hoặc kết hợp trồng lúa nổi trong điều kiện ngập nước với nuôi cá. Những phương pháp như vậy đã mang lại nhiều lợi nhuận hơn so với việc chỉ trồng lúa độc canh. Về phần mình, Ngân hàng Thế giới đang hỗ trợ các sáng kiến lớn ở vùng thượng nguồn đồng bằng để trang bị thêm đê điều nhằm khôi phục chế độ lũ lụt tự nhiên cho nông nghiệp.
Tiêu Hoàng Phố tại ao nước ngọt ở Phú Tân, nơi ông hứng nước mưa và nuôi cá.
Stefan Lovgren
Marc Goichot, lãnh đạo nước ngọt khu vực Châu Á Thái Bình Dương của Quỹ Động vật hoang dã Thế giới, nơi hỗ trợ các dự án nông nghiệp ngập lụt nhấn mạnh đến việc ra quyết định của cộng đồng địa phương, cho biết: “Chúng tôi thường coi lũ lụt là một điều tồi tệ vì việc đo lường thiệt hại dễ dàng hơn nhiều so với giá trị của chúng”. “Nhưng lũ lụt có nhiều lợi ích, từ việc rửa trôi các vùng đất ô nhiễm đến mang lại chất dinh dưỡng và tái tạo tầng ngậm nước.”
Các chuyên gia chỉ ra rằng những điều chỉnh đơn giản đối với cơ sở hạ tầng quản lý nước, chẳng hạn như mở cửa xả lũ trong mạng lưới sông và kênh, cũng có thể bắt chước chế độ lũ tự nhiên. Ví dụ, việc mở các cửa này để mô phỏng các chu kỳ lũ tự nhiên thay vì đóng chúng để bảo vệ nước mặn sẽ tạo ra thói quen sống dưới nước và giúp cá di chuyển từ các dòng sông vào vùng đồng bằng ngập nước, nơi chúng có thể kiếm ăn và sinh sản.
Andrew Wyatt, phó giám đốc tiểu vùng hạ lưu sông Mê Kông của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế, nơi xây dựng tiêu chuẩn toàn cầu cho các giải pháp dựa vào thiên nhiên, cho biết: “Bây giờ, bạn hầu như không tìm thấy bất kỳ loài cá nào ở những vùng trồng lúa thâm canh này”. rằng chúng phải mang lại lợi ích cho cả con người và đa dạng sinh học.
Một số chuyên gia cho rằng Đồng bằng sông Cửu Extended là một trường hợp điển hình về cách sử dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên để bắt chước các quá trình tự nhiên. Rafael Schmitt, người từ lâu đã nghiên cứu các con đập và các vấn đề trầm tích ở sông Mê Kông, cho biết: “Để khôi phục toàn bộ hệ thống môi trường xã hội như Đồng bằng sông Cửu Extended đang bị đe dọa cơ bản bởi các hoạt động của con người, đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ lại các giải pháp dựa vào thiên nhiên ngoài việc chỉ phục hồi thảm thực vật ở địa phương”. và là nhà khoa học chính tại Dự án Vốn tự nhiên của Đại học Stanford.
Không có giải pháp rõ ràng dựa trên thiên nhiên để giải quyết tình trạng mất cát và trầm tích, nhưng các biện pháp thực hành có thể được cải thiện.
Theo một số nhà quan sát, mặc dù chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ các chính sách môi trường, một số quan chức vẫn giữ các phương pháp tiếp cận nông nghiệp truyền thống, tập trung vào lúa gạo cho vùng đồng bằng. Các dự án như cửa cống kép Cái Lon-Cái Bé trị giá 129 triệu USD, nhằm ngăn chặn sự lan rộng của nước mặn và hoàn thành vào năm 2021, đã vấp phải sự chỉ trích từ các nhà phê bình cho rằng những người ủng hộ nó được thúc đẩy bởi lợi ích kinh tế, thay vì cam kết thực hiện bền vững. .
Trên khắp vùng đồng bằng, đường sá và các cơ sở hạ tầng khác đang xuống cấp và hiện tượng sụt lún đất đang diễn ra nhanh hơn tới bốn lần so với mực nước biển dâng. Các nghiên cứu cho thấy các con đập ở thượng nguồn giữ lại tới 50% trầm tích của lưu vực sông Mê Kông, nếu không chúng sẽ đến và bổ sung cho vùng đồng bằng. Việc khai thác cát, được sử dụng trong xây dựng và sản xuất, loại bỏ lượng cát nhiều hơn từ 5 đến 9 lần so với lượng cát lắng đọng ở đồng bằng hàng năm.
Không có giải pháp rõ ràng dựa trên thiên nhiên để giải quyết tình trạng mất cát và trầm tích. Nhưng các chuyên gia cho rằng thực tiễn có thể được cải thiện. Ví dụ, các con đập có thể được xây dựng ở những nơi chúng không gây ra nhiều thiệt hại và cát có thể được khai thác từ những nơi ít cần thiết hơn cho sự ổn định của đất đai.
Dự án trồng rừng ngập mặn ở Việt Nam.
UNDP Việt Nam
Cải thiện dòng chảy của cát và trầm tích cũng rất cần thiết để phục hồi rừng ngập mặn, rừng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu xói mòn bờ biển và đóng vai trò là rào cản tự nhiên chống lại nước dâng do bão. Phục hồi rừng ngập mặn được coi là một giải pháp dựa vào thiên nhiên truyền thống hơn là thay đổi các quy trình nhằm khôi phục các điều kiện tự nhiên.
Nhưng ở nhiều nơi, rừng ngập mặn của Việt Nam đã bị tàn phá do sử dụng chất độc màu da cam trong chiến tranh chống Mỹ. Ở những nơi khác ở đồng bằng, các rào chắn đá ngoài khơi – được xây dựng để bảo vệ bờ biển khỏi sóng lớn – đã làm thay đổi động lực của nước và bãi biển, khiến rừng ngập mặn bị cuốn trôi.
Một số dự án phục hồi rừng ngập mặn đã được khởi xướng ở đồng bằng, nhưng công việc này gặp nhiều khó khăn do lượng trầm tích chảy ra biển giảm. Schmitt cho biết: “Rừng ngập mặn cần giữ đủ trầm tích để xây dựng hệ thống rễ của chúng”. “Nếu bạn trồng cây ngập mặn ở nơi không có trầm tích, bạn đang lãng phí thời gian”.
Trở lại Cần Thơ, chuyên gia tư vấn Thiện cho biết thời kỳ kỹ thuật và xây dựng không quan tâm đến thiên nhiên đã qua. “Trước đây chúng ta rất háo hức chinh phục thiên nhiên. “Chúng tôi không dừng lại một phút để nghĩ xem nó vận hành như thế nào,” anh nói. “Ít nhất bây giờ chúng ta đang bắt đầu tôn trọng luật tự nhiên. “Nó đang đi đúng hướng.”